Trường Tiểu học Bình Ân được thành lập theo Quyết định số 27/QĐ-UBND, ngày 26 tháng 8 năm 1992 của Chủ tịch UBND huyện Gò Công Đông về việc  thành lập trường tiểu học Bình Ân.

Sau khi được đầu tư xây dựng cơ sở khang trang, sạch đẹp năm 2011 trường được vinh dự đổi tên là trường tiểu học Nguyễn Thị Tư theo Quyết định số 2768/QĐ-UBND ngày 07 tháng 11 năm 2011 của chủ tịch UBND huyện Gò Công Đông.

Bà tên thật là Nguyễn Thị Tư, bí danh Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Hòa, còn gọi là sáu Hòa,( tên gọi ở quê nhà Tư Hên ), sinh ngày 19 tháng 5 năm 1925. Quê xã Bình Ân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.

Bà Nguyễn Thị Tư là con của ông Nguyễn Văn Sáu và bà Thái Thị Hiệp thuộc một gia đình công chức khá giả. Năm 17 tuổi bà lập gia đình với ông Trương Văn Đẩu, người đồng hương tỉnh Gò Công, Ông là một công chức có lòng yêu nước và sớm tham gia cách mạng. Do ảnh hưởng lòng yêu nước, tư tưởng cách mạng từ quê hương, gia đình, đặc biệt là của chồng, bà đã sớm giác ngộ cách mạng. Tháng 8/ 1945, cùng chồng tham gia cướp chính quyền tại Thị xã Gò Công. Năm 1947, lúc 22 tuổi bà Nguyễn Thị Tư được giao nhiệm vụ đầu tiên là Phó ban chấp hành Phụ nữ Bình Ân, thị xã Gò Công. Ngày 19/5/1949 bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản.

 Trong quá trình hoạt động cách mạng Bà Nguyễn Thị Tư lần lượt là cán bộ phụ trách bộ phận giao liên hợp pháp của Thành đoàn Sài Gòn Gia Định, Bí thư chi bộ cơ quan tuyên huấn học sinh, sinh viên khu Sài Gòn Gia Định, Trưởng ban hậu cần thuộc Ban quân sự Thành đoàn Sài Gòn Gia Định, Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hồ Chí Minh, Ban công vận thành sau là liên hiệp Công đoàn thành phố Hồ Chí Minh. Bà được phong quân hàm Trung úy đặc công. Trong quá trình hoạt động, bà Nguyễn Thị Tư hai lần bị địch bắt giam và tra tấn dã man, nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, kiên cường, đấu tranh bảo vệ toàn vẹn bí mật của cơ sở, vượt qua khó khăn gian khổ để trở lại hàng ngũ.

Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, bà chuyển ngành tham gia công tác tại Ban tổ chức Liên đoàn lao động thành phố Hồ Chí Minh. Với tác phong quần chúng, gần gũi với tầng lớp lao động, bà đã góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn còn mới mẽ ở cơ sở. Đặc biệt bà tình nguyện xuống huyện Cần giờ ( khi mới sáp nhập về thành phố) để xây dựng phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.

Năm 1981 đến 2001,  bà Nguyễn Thị Tư được nghỉ hưu, Bà về sinh hoạt Đảng và tham gia các hoạt động xã hội ở phường 6 quận 3. Bà là thành viên tích cực trong Ban chủ nhiệm câu lạc bộ truyền thống kháng chiến thành phố và câu lạc bộ truyền thống vũ trang biệt động thành phố. Bà còn tự mình tổ chức các cơ sở sản xuất để tạo ra sản phẩm cho xã hội, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho thanh niên nghèo, con em gia đình chính sách, bộ đội phục viên và tham gia nhiều công tác xã hội, từ thiện: cấp học bổng và tặng xe đạp cho học sinh nghèo, nuôi dưỡng con em liệt sĩ, thường xuyên thăm viếng và tham gia vận động kinh phí đóng góp xây dựng 5 ngôi trường ở vùng căn cứ kháng chiến cũ ở: Củ Chi, Đức Hòa, Bến Tre…

Năm 1954 đến 1975, khi chồng đi tập kết, bà được tổ chức phân công ở lại chiến đấu ở miền Nam. Vừa công tác vừa chăm sóc 2 mẹ già ( mẹ chồng và mẹ ruột), vừa nuôi 6 con nhỏ học hành. Khi các con lớn lên, bà lần lượt giáo dục truyền thống cách mạng của quê hương, của gia đình và giác ngộ đưa 6 con lần lượt tham gia cách mạng ở quê và Sài Gòn, tất cả 6 người con của bà đều là đảng viên Đảng Cộng sản, đều thoát li hoạt động cách mạng ở nội thành hoặc vào vùng căn cứ.

Năm 2001, Bà qua đời để lại nhiều thương tiếc trong lòng con cháu, đồng chí, đồng đội và mọi người xung quanh.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và kháng chiến, bà Nguyễn Thị Tư ( Nguyễn Thị Hòa, sáu Hòa, Nguyễn Thị Hạnh, tư Hên ) đã chứng tỏ là một chiến sĩ kiên trung, bất khuất, một đảng viên gương mẫu đồng thời bà đã thể hiện được đức tính của một người phụ nữ Việt nam, một người con hiếu thảo, một người vợ thủy chung, đảm đang, một người mẹ đáng để tự hào và noi gương.

Bà đã được Đảng và Nhà nước phong tặng:

1. Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất

2. Huân chương Quyết thắng hạng Nhất

3. Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba

4. Huân chương  chiến công giải phóng hạng Ba

5. Huy chương Vì thế hệ trẻ

6. Huy chương Vì sự nghiệp Công đoàn

7. Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng

8. Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh

Và nhiều Bằng khen, Giấy khen cho nhiều thành tích khác nhau.

Bà được Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân ngày 17- 4 – 2010.